Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đang trò chuyện với PV
Cho đến nay, các nhà y học chính thống và bảo thủ nhất cũng đã phải công nhận Thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vi và lối sống, đem lại những hiệu quả tích cực cho sức khỏe của cá nhân và cộng đồng. Ngày càng có nhiều nghiên cứu về lâm sàng và về sinh lý học trong thiền nhằm soi sáng nhiều điều trước đây chỉ được biết qua kinh nghiệm. Nhưng thực ra Thiền không dừng ở đó. Thiền Phật giáo lại còn có những sắc thái riêng biệt, đáng được nghiên cứu và thể nghiệm.
Con đường độc nhất đến thanh tịnh
Trong đời sống thường ngày, những người bình thường như chúng ta cũng có thể có những phút “ngộ”: đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng. Nhưng ta chỉ “ngộ” một chút rồi quên, rồi “trôi lăn” theo những tham sân si, những quấn quít chằng chịt không sao thoát nổi! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Hẳn phải có một con đường khác.
Phật khẳng định có con đường khác đó: “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…” Đó chính là con đường hạnh phúc mà Phật đã trải nghiệm với nụ cười tự tại trên môi, con đường nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tuỵ sẻ chia cho mọi người từ ngày thành đạo. Đó là con đường thực nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận, được kiểm chứng và có tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh này, bởi sợ rằng ngày sau người ta lại có thể say mê với những tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, thể nghiệm. Con đường đó chính là thiền định, từ đó dẫn đến tuệ giác, giải thoát rốt ráo.
Thiền đã có từ rất lâu đời. Có lẽ từ ngày xa xưa con người tình cờ phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái an lạc, sảng khoái, siêu thoát nào đó, một trạng thái nói không được, mà chỉ có thể cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích luỹ kinh nghiệm, truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách.
Chính Đức Phật, trong khi tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình đã có lần rơi vào trạng thái sơ Thiền này mà nhanh chóng phát hiện ra con đường riêng của mình, con đường không những diệt trừ khổ ưu mà còn dẫn đến thành tựu chánh trí. Trước đó ngài đã từng rời bỏ những con đường Thiền khác.
Rõ ràng Thiền đã có từ xa xưa nhưng Thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng. Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về Thiền, ta càng bị tẩu hoả nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó “bất khả thuyết” và đặc biệt “bất khả đắc” khi ta nóng lòng muốn “chộp” lấy nó! Nó như thách thức những học giả, những trí thức mà lại mỉm cười với anh hàng thịt, người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự tinh tấn thực hành, sự nhẫn nhục thể nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương khảo luận.
Một phương pháp trị liệu khoa học
Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về Thiền chừng khoảng hơn nửa thế kỷ nay nhưng chỉ 30 năm gần đây thì Thiền mới được coi là một phương pháp trị liệu khoa học trong y học. Cũng đã có những nghiên cứu so sánh các kỹ thuật Thiền. Những nghiên cứu về sinh lý học giúp Thiền ngày càng được hiểu rõ hơn. Hành giả có thể giảm đến 40% nhu cầu oxy và giảm 50% nhịp thở trong lúc Thiền.
Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng Thiền cũng giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng qua các nghiên cứu cho thấy Thiền khác hẳn, thực sự là một trạng thái tỉnh giác, ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất tuỳ trình độ hành giả. Ở những hành giả thực hành Thiền dài khoảng 30 – 40 phút thấy mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, hoạt động hệ giao cảm giảm trên bề mặt da và nhịp tim cũng giảm đáng kể.
Về nội tiết, thấy giảm cortisol (hormone chủ yếu của stress) và ACTH; TSH, GH cũng giảm, trong khi đó arginine vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ lại gia tăng đáng kể. Hiện ngày càng có nhiều nghiên cứu về beta-endorphin, corticotropin, melatonin, DHEA hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của Thiền trên nhiều mặt về y sinh học.
Hoạt động điện não đồ EEG cũng cho thấy Thiền có sự khác biệt với nghỉ và ngủ. Thiền không phải là giấc ngủ, trái lại là một trạng thái an tịnh tỉnh giác. Các nghiên cứu về sinh lý học trong Thiền vẫn còn đang tiếp diễn. Thế nhưng đã chứng minh được Thiền có khả năng làm giảm stress, cao huyết áp, tạo sự sảng khoái, yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu đối chứng về cơn đau kinh niên, lo âu, trầm cảm cho thấy Thiền làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung và giảm 70% triệu chứng lo âu. Hành giả thực hành Thiền hơn năm năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi.
Một nghiên cứu trên học sinh cấp hai có thực tập Thiền cho thấy kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, có thói quen làm việc, cải thiện hành vi (xung đột, hung hãn), tăng lòng tự tin, khả năng hợp tác và quan hệ với người khác. Thiền cũng giúp làm giảm cân, giảm béo phì, nghiện thuốc lá, rượu và các chất ma tuý nói chung. Đặc biệt, một nghiên cứu đối chứng ở 44 bệnh viện cho thấy Thiền đã giúp làm giảm sai sót chuyên môn y khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu kiện của bệnh nhân đối với bệnh viện. Ở các công nhân kỹ thuật có thực tập Thiền trong tám tuần cho thấy họ làm việc phấn khởi hơn, thích thú hơn, nhiệt tâm hơn, giảm thiểu các bệnh cảm cúm thường gặp so với nhóm không thực tập thiền.
Tóm lại, hiệu quả của Thiền đã được chứng minh trong nhiều lãnh vực đời sống.
Khỏe không phải chỉ là không bệnh
Sức khỏe được định nghĩa: “là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật” (WHO, tổ chức Sức khoẻ thế giới, 1946). Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ… Cái khó ở đây là làm cách nào đánh giá được “tình trạng sảng khoái” về cả ba mặt thể chất, tâm thần và xã hội như định nghĩa đã nêu? Đánh giá sự sảng khoái, sự hài lòng trong cuộc sống – cũng chính là hạnh phúc – là chuyện không đơn giản chút nào! Chính vì thế mà mãi nửa thế kỷ sau, WHO mới đưa ra được một bảng “Đánh giá chất lượng cuộc sống” (Quality of Life Assessment) để cụ thể hoá định nghĩa sức khỏe đã nêu trên.
WHO định nghĩa: Chất lượng cuộc sống là những cảm nhận của các cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hoá và các hệ thống giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ. Điều dễ thấy ở đây là cách đo đạc chất lượng cuộc sống đặt trọng tâm lên cảm nhận cá nhân của từng người, cho thấy có cái nhìn khác xưa đối với bệnh tật và sức khỏe lâu nay chủ yếu dựa vào cảm nhận của thầy thuốc và sự mách bảo của máy móc xét nghiệm!
Tôi : vũ Hồng Đức năm nay 64 tuổi, học trường sinh học dưỡng sinh được 14 năm ( ngồi thiền được 14 năm)
Qua 14 năm ngồi thiền tôi có ý kiến riêng như sau:
- ngồi thiền cực kì tốt, mọi người nên học
-thiền là khoa học, mong đừng hiểu nó là tâm linh vì khai mở huyệt đạo Theo Tây y nó như kích thích vào bối thần kinh ( mút thần kinh), làm cho dây thần kinh nào ngủ thì thức dậy và làm việc, nên mọi chức năng trên cơ thể đều hoạt động thế là đẩy lùi được bệnh tật thôi ( vì con người theo khoa học Tây y 70 bệnh có thể tự phục hồi)
-mọi người đều thiền được. Vì có thể thiền trong mọi tư thế, không nhất thiết phải ngồi kiết già, thẳng lưng… như phật.
- nếu áp dụng Cho thực tế vào cuộc sống hiện tại thì: một: người trẻ tuổi từ 18-50 nên ngồi thiền 35 phút, hai: người 50- 60 nên ngồi 50 phút, người từ 6p-70 nên ngồi 70 phút, người bệnh, già yếu, thì ngồi càng nhiều càng tốt.
Trẻ con đến 18 tuổi không nên ngồi thiền.
- đừng bao giờ nghĩ quá lên tác dụng của thiền , nghĩ quá nhiều tìm mọi cách để đạt được mục tiêu , sai cách dễ bị tẩu hỏa nhập ma ( thực chất nó là hoang tưởng)
- nên kết hợp thiền với yoga ( yoga nguyên thủy) nó bổ trợ Cho nhau thì tuyệt vời, khỏe lắm.
Hiện nay tôi vẫn đang duy trì 3 món: tối đi bộ 40 phút, sáng dậy ngồi thiền 35 phút song tập yoga 70phut.
Tóm lại, làm gì cũng phải duy trì: đúng, đủ, đều, đạt. Quyết tâm, thành tâm, thiện tâm và tu tâm đặc biệt duy trì 365/365 mọi việc sẽ đến với mọi người rất tốt đẹp.
Trên đây là suy nghĩ của bản thân, thấy sao, nghĩ sao viết vậy. Rất cảm ơn trường sinh học dưỡng sinh, nhớ duyên mà được theo học và duy trì.
Tôi ủng hộ bài viết, vì nó trùng suy nghĩ của tôi, tôi đã ngồi thiền 15 năm, nhưng tôi chỉ thấy ưu điểm là khí huyết lưu thông, còn có trường sinh học hay không thì tôi không biết.
@Phạm Tuấn Bạn vào trang này, trong đó có thông tin các lớp: https://www.facebook.com/groups/2015192391950942
Em xin hỏi ở quận 3 TP.HCM muốn xin học thì liên lạc ở đâu? XIn cám on!
Ở Củ Chi có mở lớp không bạn.
@Nguyễn Ngọc Nam bạn đã tham gia học chưa ? nếu chưa thì hôm nay (20.02.23) sẽ tố chức ở 1 địa điểm duy nhất trong HCM: 40-42 Đường số 29,KP, chợ An Dương Vương, Phường 10, Quận 06.
@Hiếu Cô Như ko còn dạy nữa thì Anh còn biết ai ở khu vực HCM Ko ah? Xin cảm ơn
Mong em về nhà quyết tâm luyện tập! Đi học mới chỉ là bước khởi đầu, như là gieo hạt giống xuống thôi. Mình phải thường xuyên chăm sóc, tưới tắm thì hạt giống mới cho quả ngọt được. Quãng đường sẽ có gian truân nhưng sẽ luôn luôn có người giúp đỡ em nhé!
Trường Sinh ươm cội tình yêu
Vun tròn quả phúc bên nhau suốt đời.
Ai có duyên thì hãy đến với môn học để có cơ hội tận hưởng nguồn năng lượng vô giá của trời đất để chất lượng cuộc sống được nâng cao, sống khỏe mạnh, an lành và hạnh phúc.