Trường Sinh Học Dưỡng Sinh

http://www.truongsinhhocds.com


Năng lượng tình thương trong môn Dưỡng sinh Trường Sinh học

“Năng lượng tình thương” là một khái niệm rất quan trọng trong nội dung học tập của môn Dưỡng sinh Trường Sinh học.
         1- Khái niệm Năng lượng tình thương
       Môn Dưỡng sinh Trường Sinh học có 7 cấp học. Các lớp Cấp 1 và Cấp 2 thường được tổ chức thành lớp Hướng dẫn Căn bản, học trong thời gian 6 ngày, 3 ngày cho Cấp 1 và 3 ngày cho Cấp 2. Trong 3 ngày đầu, các học viên lớp Cấp 1 được khai mở luân xa lần thứ nhất và học cách khai thác năng lượng để nâng cao sức khỏe và đẩy lùi bệnh tật cho chính mình. Trong 3 ngày tiếp theo, các học viên lớp Cấp 2 được khai mở luân xa lần thứ hai và học cách truyền năng lượng cho người khác để giúp họ nâng cao sức khỏe và đẩy lùi bệnh tật.
       Như vậy, mục tiêu học tập ở Cấp 1 của môn Dưỡng sinh Trường Sinh học chủ yếu là học tập vì mình và cho mình. Còn mục tiêu học tập ở Cấp 2 chủ yếu là học tập vì người khác và cho người khác. Ý nghĩa  cao đẹp vì người khác của mục tiêu học tập ở Cấp 2 môn Dưỡng sinh Trường Sinh học làm cho nội dung học tập của cấp này mang đậm tính nhân văn, thể hiện được tôn chỉ và mục đích hoạt động của Dưỡng sinh Trường Sinh học là Hành thiện giúp đời, không danh không lợi.”
       Chính vì có tính vô ngã vị tha trong mục tiêu học tập của Cấp 2, nên trong nội dung học tập của cấp này xuất hiện khái niệm Năng lượng tình thương. “Năng lượng tình thương” là một trong bốn nội dung học tập cơ bản nhất của Cấp 2, thường được gọi tắt là “4 điều cơ bản của Cấp 2”(1), có ý nghĩa rất quan trọng đối với môn Dưỡng sinh Trường Sinh học. Nó quan trọng tới mức nhiều khi người ta dùng nó như một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt môn Dưỡng sinh Trường Sinh học với các môn dưỡng sinh khác đang tồn tại rất nhiều ở nước ta cũng như ở các nước khác.
       Nội dung điều cơ bản thứ 3 của Cấp 2 về Năng lượng tình thương là: Khi truyền năng lượng cho người khác, ta phải có tình thương, coi họ như người thân ruột thịt của mình. Nếu họ lớn tuổi hơn mình thì coi họ như cha mẹ, chú bác, anh chị mình. Nếu họ nhỏ tuổi hơn mình thì coi họ như con em mình. Việc truyền năng lượng mang theo cả tình thương (Năng lượng tình thương) sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều so với việc truyền năng lượng một cách vô cảm.
       Có lẽ không ai không cho rằng “truyền năng lượng tình thương có hiệu quả hơn truyền năng lượng vô cảm”điều hiển nhiên, là điều chẳng có gì phải bàn cãi, chẳng có gì phải tìm hiểu… Tuy nhiên, đằng sau cái rất “hiển nhiên” đó thực ra vẫn ẩn dấu những cơ sở khoa học và minh chứng cần được làm sáng tỏ để giúp chúng ta tin tưởng hơn, thực hiện một cách có ý thức hơn việc truyền năng lượng cho người khác. Phần trình bày dưới đây có thể coi là một trong những cách lý giải ít nhiều mang tính khoa học về “Năng lượng tình thương”.
         2. Cơ sở khoa học và minh chứng
       Vào những năm đầu của thế kỷ này, Giáo sư Tiến sĩ  người Nhật, Masaru Emoto, đã cho ra đời 3 cuốn sách viết về nước (Bí mật của nước, Thông điệp của nước, Điều kỳ diệu của nước). Những thí nghiệm về tác dụng mạnh mẽ và kỳ lạ của tình thương yêu của con người lên nước – một thực thể tưởng như hoàn toàn vô tri, vô cảm, trình bày trong các sách của ông – đã thực sự làm ngạc nhiên và gây xúc động lòng người. Sách của ông đã được liệt vào loại sách bán chạy nhất hành tinh, được dịch ra 24 thứ tiếng, bán được hàng triệu bản trên 70 nước khác nhau.
       Một trong những thí nghiệm nổi tiếng này là thí nghiệm về sự kết tinh của nước. Masaru Emoto đổ vào các đĩa Pêtri(2) trong phòng thí nghiệm, mỗi đĩa khoảng 5cm3 nước. Trong vài giờ liền, ông dùng ý nghĩ để truyền những thông tin tốt đẹp về tình thương yêu và lòng biết ơn của con người vào một số đĩa, sự căm ghét và lòng oán hận vào một số đĩa khác, trước khi đưa tất cả vào tủ lạnh để hạ nhiệt độ xuống –250C cho nước kết tinh. Sau đó, ông đưa các đĩa về –50C và dùng  kính hiển vi có độ phóng đại 200 lần để quan sát và chụp ảnh các tinh thể nước hình thành trong các đĩa này. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Nước trong các đĩa nhận được tình cảm thương yêu và lòng biết ơn của con người thì kết tinh thành những tinh thể cân đối, trong sáng, vô cùng đẹp đẽ, chẳng khác gì những viên kim cương được cắt gọt một cách tinh xảo (H.1). Ngược lại nước trong các đĩa chỉ nhận được sự căm ghét và lòng oán hận, thì tạo thành những tinh thể méo mó, mờ nhạt, xấu xí, thậm chí còn xuất hiện cả những vết đen mờ ám giữa các tinh thể (H.2).
 
H.1 Tinh thể nhận được tình thương yêu – H.2 Tinh thể nhận được lòng oán hận.
 
       Vì cơ thể con người có tới 70% là nước nên Emoto cho rằng khi nhận được năng lượng mang theo thông tin tốt đẹp về tình thương yêu và lòng biết ơn thì con người sẽ khỏe mạnh lên, đẩy lùi được bệnh tật.
       Để giải thích, Emoto dựa vào một quan điểm đã được nhiều nhà khoa học thừa nhận về một thế giới rung động. Mọi thực thể tồn tại trong thế gian này đều dao động theo những tần số riêng của mình và truyền vào không gian các sóng mang đặc trưng của đối tượng phát sóng. Từ các hạt hạ nguyên tử đến các tế bào sống riêng lẻ, từ một bộ phận đến toàn bộ cơ thể của một sinh vật, từ một vì sao đến toàn bộ vũ trụ, thậm chí từ một lời nói, một ý nghĩ đến một cảm xúc,… đều dao động và phát sóng mang đặc trưng của mình vào môi trường chung quanh.
       Có thể chưa phải là tất cả, nhưng phần lớn các dao động và sóng này đều có thể ghi lại được bằng những thiết bị từ thô sơ đến hiện đại, đặc biệt là những thiết bị đo lường lượng tử. Khi có sự tương ứng, sự trùng hợp thích hợp về tần số của dao động và sóng thì hiện tượng cộng hưởng xảy ra, làm cho cường độ của dao động và sóng mạnh mẽ lên rất nhiều, về lý thuyết có thể mạnh lên đến vô cùng. Ngược lại, khi không có sự tương ứng thích hợp về tần số thì không có cộng hưởng, các dao động và sóng có thể đối lập nhau, làm suy yếu nhau, thậm chí hủy diệt nhau. Tần số dao động của Trường Sinh học lành mạnh trong cơ thể người mà hào quang của nó có thể ghi được bằng những thiết bị điện tử thông thường là những tần số cao, phù hợp với tần số của các sóng mang theo thông tin về tình thương yêu. Đó chính là cơ sở của việc tạo ra sức mạnh của tình thương, là nguồn gốc gây ra tác dụng  mạnh mẽ của “Năng lượng tình thương”.
       Người ta thường lấy ví dụ về một người đã tự chữa khỏi bệnh ung thư thận cho mình chỉ nhờ sáng sáng lên tầng thượng của chung cư để ngắm cảnh mặt trời mọc, giữ cho tâm hồn thanh thản và bằng ý nghĩ gửi đi những thông điệp về tình thương yêu và lòng biết ơn đến các tế bào của mình để minh chứng cho sức mạnh của tình thương đối với sức khỏe con người. Đó là ông Terayama, nguyên Giám đốc của một Hội Y học Nhật Bản. Nhờ ngày ngày truyền ý nghĩ về tình thương yêu và lòng biết ơn đến các tế bào thận của mình mà các tế bào này của ông hồi phục dần dần cho đến khi các bác sĩ tuyên bố là trong cơ thể của ông chỉ còn toàn những tế bào lành mạnh và ông đã khỏi bệnh.
       Thực ra, chẳng cần phải đi đâu xa cũng dễ dàng tìm được người làm nhân chứng cho tác dụng kỳ diệu của “Năng lượng tình thương” đến sức khỏe con người. Đến bất kỳ một Trung tâm hay Câu lạc bộ Dưỡng sinh Trường Sinh học nào, chúng ta cũng có thể được nghe kể hoặc gặp gỡ những người đã từng truyền năng lượng cho người khác với tất cả tình thương yêu của mình và những người đã nhờ nhận được “Năng lượng tình thương” này mà trở thành người tốt hơn, khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tâm hồn. Có anh, chỉ nhờ truyền “Năng lượng tình thương” mà đã thuyết phục được cả 4 thế hệ trong gia đình mình thường xuyên luyện tập Dưỡng sinh Trường Sinh học, làm cho cả nhà đều khỏe mạnh, không bệnh tật, sống hòa thuận bên nhau. Có chị, cũng chỉ nhờ truyền năng lượng kèm theo tình mẫu tử thiêng liêng cho con mình mà đã giúp con mình, cai được thuốc lá, bỏ được bia rượu, hết mọi bệnh tật, trở về sống hạnh phúc với vợ con, v.v,…
       Hy vọng rằng, Viện Nghiên cứu và Thực hành Khoa học Dưỡng sinh (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) trong quá trình phát triển, sẽ được trang bị các thiết bị đo lường hiện đại, để có thể tiến hành các thí nghiệm, giúp xác định một cách định lượng và thuyết phục tác dụng của “Năng lượng tình thương” đến sức khỏe thể chất và tâm hồn con người.
 
Hà Nội, những ngày đầu năm 2017.
 
       (1) Bốn điều cơ bản của Cấp II: 1/- Phải sẵn có năng lượng để giúp người. 2/- Phương pháp và kỹ thuật. 3/- Năng lượng tình thương. 4/- Tâm lý người được trợ giúp.
       (2) Pêtri là loại đĩa nhỏ bằng thủy tinh hoawck sứ có nắp đậy, dung tích khoảng 10cm3 mà các nhà sinh vật học thường dùng để nuôi cấy tế bào trong phòng thí nghiệm.

Tác giả bài viết: PHẠM GIA THỊNH (Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Dưỡng sinh Hà Nội)

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây