Hô hấp và sự sống

Thứ tư - 04/11/2020 17:10
Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo là sự chết đến ngay.
Hô hấp và sự sống
 
          Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể.
          Hơi thở của một người khỏe mạnh bình thường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hơi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh, trong một linh hồn minh mẫn.
          Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi thở của họ thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở bất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài, điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh bình thường.
          Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào) càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoạn tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào) trong một phút.
          Những người tu hành thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồi thiền, họ có thể tập tịnh tâm kéo dài trong 30 phút hoặc nhiều hơn. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan điền).
           Bộ máy hô hấp
          Đối với học viên mới nhập môn, điều quan trọng nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đến tiến trình hô hấp của con người như sau:
          Nhiệm vụ của phổi:Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miệng, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong lồng ngực và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy, bên trái có hai thùy.
          Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái và phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí gọi là phế nang.
          Bên trong mỗi lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí, chia thành nhiều chùm phế nang, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co giãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi nhờ phế nang chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải trừ thán khí (carbon dioxid) của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải trừ thán khí (carbon dioxid) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxid).
          Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 – 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt.
          Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong lồng ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.
          Vai trò hoành cách mô:Thân người được chia làm hai phần: trên là lồng ngực, dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một “hoành cách mô” (một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co giãn của lồng ngực và hoành cách mô đã đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí.
          Lồng ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phổi bắt đầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn. Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho lồng ngực được căng phồng lên. Do đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự giãn nở lớn tối đa của lồng ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi.
          Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, đan điền), khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi, đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, khiến cho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4 phân (centimet). Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi giãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ phế nang, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự giãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi nhỏ phế nang mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxid) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi.
          Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng và màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch, cũng như tạo nên sự kích thích cho đôi dây thần kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh.
          Không khí được thở ra là bước sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên, đồng thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài.
          Vai trò của khí đối với hệ hô hấp
          Hệ hô hấp ở đây bao gồm hô hấp trên và dưới. Hô hấp trên là các xoang, họng, hầu, khí quản. Hô hấp dưới là phổi. Hay còn được gọi là hệ phế.
          Phế thuộc kim, tàng phách, chủ khí biểu hiện mùa thu.
          Phế chủ khí toàn thân, thanh lọc vinh khí do ăn uống mà có và xuất khí.
          Phế đưa khí xuống thận khí hít vào và khuếch tán ra da khi thở ra.


Ngồi thiền hít thở không khí trong lành.
 
          Nếu chức năng đưa xuống dưới kém sẽ bị ứ trệ khí ở trên gây nên tức ngực, khó thở, đàm kéo, hen suyễn, ho.
          Nếu khuếch tán ra da yếu kém sẽ làm cho vệ khí yếu mất khả năng bảo vệ tà khí xâm nhập.
          Xoang, họng, hầu hoặc khí quản là cửa ngõ của phế. Nếu kinh phế yếu thì khí sẽ không bảo vệ được những phần này và bệnh lý sẽ xảy ra.
          Do đó tập luyện thở phổi tức là tăng cường kinh phế sẽ giúp thông được mọi ách tắc gây bệnh.

Tác giả bài viết: TS. BS. LÊ HÀNH

Nguồn tin: www.khoahocphothong.com.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 148 trong 35 đánh giá

Xếp hạng: 4.2 - 35 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   
. "Sức khỏe là vốn quý nhất của mọi con người và của toàn xã hội; là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức khỏe. Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và của mọi người dân; là trách nhiệm ... "
(Trích NQ TW4, Khóa VII) .
Bình luận mới
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây