Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê – Mạc. Ông quê gốc ở huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Ông sinh cùng thời với Nostradamus (1503 – 1566), nhà tiên tri đại tài của phương Tây. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo. Ông khôi ngô tuấn tú và có tư chất thông minh khác thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ văn chữ Nôm truyền miệng và kinh sách được mẹ dạy cho. Lớn lên, ông theo học người thầy nổi tiếng tinh thông Lý học là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông có nhân cách và tài năng lỗi lạc nên đã được thầy giảng dạy Bát quái đồ, Kinh Dịch, Lý học và trao truyền cho bộ sách Thái Ất Thần Kinh.
Năm 1542, ông đã xin cáo quan ở tuổi 53. Sau khi về trí sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mở trường dạy học, dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân cạnh sông Hàn Giang, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ và học trò gọi ông là "Tuyết Giang Phu tử". Nguyễn Bỉnh Khiêm được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời "Sấm ký" là những lời tiên tri mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn hoá lớn, nhà thơ triết lý, nhà hiền triết thông kim bác cổ, tài danh lỗi lạc "tác giả lớn của văn học thế kỷ XVI và của cả giai đoạn văn học thế kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII" (Từ điển Văn học Việt Nam). Ông đã để lại tập thơ chữ Nôm "Bạch Vân Quốc ngữ thi tập", "có cả ngàn bài", theo lời "Bài tựa" của chính ông, và nhiều bài thơ chữ Hán. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập đến nhiều vấn đề hiện thực xã hội, là tiếng nói về đạo lý ở đời. Vũ Khâm Lân đã khen "văn chương của tiên sinh thường bộc lộ cái tấc dạ ưu thời mẫn thế, không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ý vị, câu câu đều có ngụ ý răn đời" "ý nghĩa thanh cao mà siêu thoát".
Cụ từ trần ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Vua Mạc Mậu Hợp truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm là Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công, nên nhân dân quen gọi là Trạng Trình. Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương loại chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở". La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài "Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi của tạo hóa). Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng Trình “Như núi Thái sơn, sao Bắc Ðẩu/ nghìn năm sau như vẫn một ngày”.
Sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết mấy bài thơ về dưỡng sinh và còn lưu danh đến ngày nay:
Thơ chữ Hán:
DƯỠNG SINH THI
Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư, quả dục, vật lao thân.
Thực thôi bán bảo, vô kiêm vị,
Tửu chỉ tam bôi, mạc quá tuần
Mỗi bả hý ngôn, đa thủ tiếu,
Thường hàm, lạc ý, mạc sinh sân
Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá bách xuân
Tạm dịch:
THƠ DƯỠNG SINH
Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ quá từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.
(GS. Lê Trí Viễn dịch)
Thơ Nôm:
NHÀN
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
CHÍN MƯƠI
Tóc đã lưa thưa, răng đã mòn,
Việc nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa cúc
Bó củi, cần câu, trốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thì kể xuân đà muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.
Về bài thơ "Dưỡng sinh" của Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi xin mạnh dạn có bài sau:
Dưỡng sinh
Gìn tinh, dưỡng khí, thảnh thơi thần
Lo nghĩ mực chừng, tránh hoại thân
Lửng bụng cơm ăn, nên ít vị
Lưng ly rượu uống, chớ nhiều tuần
Vui cười cửa miệng luôn tươi trẻ
Khoáng đạt trong lòng mãi thắm xuân
Xảo trá, so bì đừng gọi tới
Nàng xoan đón tớ vượt trăm lần.
PHẠM DUY LƯƠNG (TX Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh)
Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn diễn đạt tương đối sát ý của tác giả, nhưng lại phạm luật thơ Đường. Có bác nào có bản dịch thơ khác không nhỉ? Nếu có, xin quý vị vui lòng gửi về BBT theo địa chỉ e-mail: truongsinhhocds@gmail.com nhé!